GIA ĐÌNH THÁNH INHAXIÔ LINH THAO TÂY BẮC ĐỨC chân thành kính chúc Qúy Độc Giả An Khang - Thịnh Vượng - Vạn Sự Như Ý

15 thg 2, 2015

MỘT CHUYẾN THĂM ÂU CHÂU VÀ HÀNH HƯƠNG KÍNH VIẾNG ĐỨC MẸ FATIMA


Năm nay vùng Toronto và phụ cận chìm ngập trong biển Tuyết trắng phau. Ngồi nhà nhìn ra thì đẹp vô cùng, nhưng dư âm của trận bão băng (Ice Storm) vào cuối tháng 12 năm 2013 vẫn lưu lại những cảnh gãy đổ của những cành cây dọc hai bên đường.
Tuyết vẫn còn cao hơn đầu người và cái lạnh làm tê tái toàn thân nếu như phải đứng bên ngoài chừng 15 phút… Tình huống như thế tôi cũng ngại ra đường, ngay cả đi dự thánh lễ mỗi ngày, tôi cũng không thực hiện được. Mùa lạnh mỗi khi ra đường ôi thôi là rắc rối, phải mặc áo trong áo ngoài hai ba lớp, rồi thì khăn trùm đầu, giày cao cổ mang vào chân trông như người sống ở vùng bắc cực… Thế nên tôi chọn giải pháp nằm nhà đọc sách có máy sưởi ấm thì thoải mái biết bao!

Chuông điện thoại reo, tôi uể oải với tay bắt lấy...
- Alô, Kim nè…, từ đầu dây bên kia tiếng bạn tôi hỏi han.
- Ph khỏe không? Đã hết mệt chưa?

Tôi nhủ thầm mình trở về từ VN 6 tháng rồi mà không khỏe chắc bị ăn đòn đó. Hì, có gì đây, mình nghĩ bụng… Đúng như in, bạn tôi sắp có chuyến đi họp tại London (England) trong vòng một tuần, sau đó sẽ đi thăm Tây Ban Nha (Spain) và kính viếng Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha (Portugal).

Kim kể ra một loạt những nơi mà Kim muốn đi và rủ tôi đi cùng cho có bạn. Ui cha nghe Kim kể mà đầu óc tôi cứ lâng lâng như đang đi du lịch kiểu hàm thụ vậy. Tôi cũng ao ước được đi vì London nơi bà Nữ hoàng nước Canada ở, là xứ của sương mù, biết bao bản nhạc được dệt lên để nói lên nỗi lòng… rồi Barcelona tôi cũng chưa đến mặc dù tôi đã đến Spain trong chuyến hành hương năm 2010, nhưng chỉ đến thành phố Burgos cách Thủ đô Tây Ban Nha 210 cây số và cũng là thành phố lớn thứ hai của Tây ban Nha, là nơi sinh trưởng của vị anh hùng dân tộc Spain EL Cid (1060-1099), nơi đây cũng có vương cung thánh đường tháp đôi được xây cất từ thế kỷ thứ 13… Lần này sẽ được đi Barcelona, tôi háo hức vô cùng… Kim lại tiếp: Mình sẽ đến Fatima nữa và sẽ ở lại 4 ngày… Kim càng kể lòng tôi càng bồn chồn và náo nức không sao kể xiết, mặc dù tôi cũng đã đến kính viếng Mẹ năm 2010, nhưng lòng tôi luôn ao ước có được chuyến nữa để đến bên Mẹ thì tuyệt biết bao!!! Nhưng tôi thực sự không dám đi, vì vừa về VN gần 2 tháng, bỏ chồng bỏ con ở nhà để đi chơi và khi trở về lại nhà thì thấy chồng xuống sức, cây cảnh trong nhà chết rụi, vườn hoa bên ngoài thì hoa cỏ chen nhau phát triển. Cô chó Daisy thì ốm tong teo! Nhìn thấy cảnh đó, tội hối hận và hứa là sẽ không đi chơi một mình nữạ. Do đó mà tôi đã trả lời với Kim là không thể đi được.
Thế mà không biết vì sao, Kim vẫn tiếp tục rủ rê và kể cho tôi nghe những dự tính đi thăm nơi này chổ nọ… máu phiêu lưu trong người tôi lại nổi lên. Thế là tôi mở màn năn nỉ ỉ ôi với ông xã, cứ như là tôi đã quá già nếu không đi sẽ không còn cơ hội để đi nữa, hơn nữa Toronto sao mà lạnh quá, nó làm chân tay như đau nhức rã rời nên cần đi tránh lạnh… Ông xã xiêu lòng và các con tôi cũng khuyến khích đi đi mẹ kẻo mẹ già sẽ không đi nổi. Thế là tôi vui quá, tôi vội phone cho Kim sẽ tháp tùng nhưng với điều kiện đi chung máy bay. Nói thêm một chút, vì Kim đã book (đặt mua) vé từ lâu, nên nếu không book vé cho tôi đi cùng chuyến thì tôi coi như Ý Chúa không muốn tôi đi! Vậy mà Kim đã book cho tôi tất cả các chuyến bay đi 3 nước đều cùng chuyến, nên tôi nghĩ âu đó là hồng ân Chúa ban để tôi có thể đi mà không ngại ngùng!

Theo dự tính, chúng tôi sẽ khởi hành vào ngày 25 tháng 1. Nhưng vì một cơn bão tuyết ập tới, các chuyến máy bay đều bị hủy hoặc bị delay (trễ), tôi cứ nghĩ cũng có thể chuyến bay của chúng tôi không thực hiện được. Trước ngày đi tôi đang lui cui sắp xếp cho ngày hôm sau khởi hành thì Kim phone đến bảo tôi: “Ngay tối nay mình đi, chứ chuyến ngày mai hủy bỏ rồi”. Thế là tôi vội phone cho ông xã về sớm để đưa tôi ra phi trường và nhét vội những đồ dùng cần thiết vào valise. Đêm đó, ngồi ở phòng đợi mà cứ lo vì sợ máy bay đình hoản. Đến 10:30 đêm chúng tôi lên máy bay và sẽ cất cánh lúc 11 giờ đêm như lịch trình. Tuy nhiên nhìn qua cửa sổ của máy bay, không thấy một chiếc máy bay nào cất cánh vì lẽ các cánh máy bay đều đóng băng, không nhúc nhích được thì làm sao bay được. Nửa giờ sau mới thấy đội nhân viên phi trường đem xe xịt nước để rửa cánh máy bay rồi thổi hơi nóng cho tan hết băng và máy bay cất cánh sau 12 giờ đêm. Thú thật thì tôi cũng có chút sợ hãi vì chả bao giờ nhìn thấy cảnh máy bay bên ngoài được chùi rửa, được sưởi cho khô như thế…

Tạ ơn Chúa, sau hơn 8 tiếng bay trong đêm, chúng tôi đã đến London lúc 2:30 chiều ngày 25. Hai chúng tôi vui lắm, vì mình có thêm được một buổi chiều ở London. Nhận phòng ở hotel xong là chúng tôi đi ngaỵ. Kim rất giỏi vì đã tìm đường đi nước bước đâu vào đó rồi, nên tôi cứ tò tò đi theo thôi.

Hôm nay, chúng tôi đi dự lễ vì là lễ chiều thứ bảy thay cho chủ nhật, nếu chủ nhật không có giờ đi được. Nhìn bản đồ Kim chấm thì nhà thờ chính tòa Westminter rất gần hotel, nên hai đứa đi bộ cho thư giãn. Thế mà, khi ra đường đi tới đi lui, lạc tới lạc lui, cả tiếng đồng hồ đi bộ vẫn không thấy nhà thờ đâu, hỏi người này người nọ họ chỉ đường, nhưng khổ nỗi đường xá xứ Sương mù này không thẳng tắp như Canada mà cong qua, quẹo lại, tẻ ra tùm lum, cùng là một con đường, nhưng đến khúc cong họ lại đặt tên khác. Báo hại, hai đứa đến nơi thì thánh lễ 4 giờ chiều vừa xong. Chúng tôi hỏi giáo dân thì họ cho biết sẽ có thánh lễ tiếp theo lúc 6 giờ tối, nhưng điều vui mừng cho chúng tôi là sau lễ họ kiệu Đức Mẹ Fatima và tôn vinh Đức Mẹ, vì thế chúng tôi nhập đoàn với họ và đi theo kiệu để dâng lên Mẹ lời tạ ơn. Có nhìn thấy đoàn kiệu có những thanh thiếu niên chen lẫn các cụ ông cụ bà mới thấy lòng đạo đức của họ vẫn còn, mặc dù nơi xứ sở này đạo Anh Giáo là chính. Vì chưa đến giờ lễ nên chúng tôi có cơ hội nhìn ngắm lối kiến trúc của Vương cung Thánh Đường Westminter này, rất nguy nga, cổ kính, nhà thờ được đặt viên đá đầu tiên vào năm 1895 và đến năm 1903 thì mở cửa. Nhà thờ được kiến trúc theo trường phái Early Christian Byzantine Style do kiến trúc sư Jonh Francis Bentleỵ. Đây là nhà thờ Mẹ của cả nước Anh và là nhà thờ chính tòa của xứ England và Wales. Trong thánh đường to lớn này, chạy dọc hai bên hông nhà thờ là những chapel của các thánh như Thánh Paul, thánh Gregory, thánh Augustine, Thánh Giuse và Mẹ Maria của Westminter. Những bức hình Chúa, Đức Mẹ và các Thánh đều được thể hiện lộng lẫy với những kính màu ghép (Mosaics) và hơn 100 loại Marble được dùng để trang hoàng bên trong thánh đường cũng như các cột to lớn thẳng tắp lên tận mái vòm cao vút…!

Hôm nay thánh lễ do Đức Giám Mục phụ tá Giáo phận cử hành để dâng lời tạ ơn vì Đức Tổng Giám Mục chính tòa Vincent Nichols được Đức Thánh Cha Francis nâng lên Hồng y và ngài sẽ đến Vatican ngày 22 tháng 2 để lãnh áo mũ Hồng Y. Sở dĩ tôi muốn kể biến cố vui mừng của Giáo dân London vì nhờ có Đức Giám Mục cử hành thánh lễ nên ca đoàn Westminter nổi tiếng của nước Anh được mời hát trong thánh lễ. Do đó chúng tôi mới có cơ hội được nghe tiếng hát thu hồn của ca đoàn nổi tiếng này và ca đoàn này cũng sẽ đi Rome để hát trong dịp phong chức cho quý đức Hồng y. Tôi bị thu hút vào từng lời ca, từng âm điệu, từng lời hát nhịp nhàng, rõ ràng và chải chuốt. Thế mới biết ca đoàn họ nổi danh đến bậc nào! Nhìn phong cách và nghe ca đoàn Westminter hát, tôi thầm nhớ về ca đoàn Thánh Giuse nơi giáo xứ chúng tôi. Mặc dù chúng tôi không bằng họ vì họ là những người đã được tuyển chọn từ khắp nước Anh, nhạc lý họ phải thật giỏi, ngay cả giọng hát cũng đều nhau và hát rất có hồn! Còn chúng tôi, dù không giỏi về nhạc lý, giọng hát không bằng nhưng chúng tôi có cố gắng để nghe lời nhạc trưởng hầu hát cho đúng, cho có tiết tấu mà hễ có tiết tấu thì chúng tôi đã thả hồn vào đó rồi. Chúng tôi hay chọc anh ca trưởng là chúng em hát có hồn đấy, không dám làm cho giáo dân mất hồn đâu. Câu nói “hát có hồn” này đã đi vào lịch sử vì khi đi ăn hoặc đi đâu chúng tôi đều bảo nhau nhớ ăn cho có hồn, nói cho…. có hồn! Nghĩ đến đấy, tôi thấy vui và thấy thương ca đoàn nhỏ bé của chúng tôi quá!

Lễ xong chúng tôi hỏi đường về khách sạn và chúng tôi đã về đến nhà chỉ sau 15 phút đi bộ, mặc dù đi trong đêm tối, lại còn ghé tiệm mua nước và thức ăn nữa chứ. Phải nói là Anh Quốc và riêng thủ đô London này nơi phồn hoa đô hội, dập dìu tài tử giai nhân, xe cộ chạy ào ào vậy mà chúng tôi cảm thấy thật an toàn đi trong đêm mà không chút sợ sệt! Đêm đó chúng tôi đã có một giấc ngủ với giọng ca hai bè thật có hồn…!

Ngày hôm sau chủ nhật, Kim đã book tour từ Canada để chúng tôi đi thăm những
danh lam thắng cảnh của thủ đô London. Chúng tôi lấy tour The Orginal Tour, London sightseeing “hop-on, hop off” nghĩa là loại xe bus mui trần này sẽ chạy ngang qua tất cả những địa danh nổi tiếng (top ten). chúng tôi leo lên tầng cao của xe bus để thấy rõ quang cảnh và dễ nghe người tour guide nói về lịch sử của từng nơi. Đi tour loại này chúng tôi được lên xuống nơi nào mình thích và dành nhiều thời gian để ngắm cảnh chụp hình… nên rất tiện lợi!

Sáng nay trời London mưa nhiều và có sương mù bao phủ, thỉnh thoảng lóe lên được chút nắng hồng rồi lại vụt tắt… Chúng tôi dừng chân tại Buckingham palace nơi nữ hoàng Elizabeth ngự trị. Có lẽ vì bà biết được hai chúng tôi từ Canada qua, bà sợ thần dân này đòi lại thuế nên bà không có mặt, hơn nữa ngày chủ nhật nên bà hay về một nơi nào đó nghỉ cuối tuần vì hoàng gia Anh rất giàu và có rất nhiều lâu đài… Xe chạy dọc những con phố chính, chúng tôi đã được nhìn tận mắt những công trình kiến trúc của dân Anh. Những tòa nhà kiểu chung cư san sát hàng trăm hộ, cao 3, 4 tầng, sơn màu trắng hay vàng kem trông rất đẹp và đây là nét đặc thù của xứ sương mù vì nhờ những tòa nhà cao và sang như thế nên trông nó nổi bật trong màn sương!!! Đi ngang qua khu phim ảnh như Hollywood của Mỹ, họ chỉ cho chúng tôi những căn nhà của các tài tử nổi tiếng trú ngụ và các phim trường chiếu những phim mà khi xưa các tài tử này đã đóng…

Khu phố này có nhiều hàng cây cao rợp bóng, tôi nghĩ chỉ cần vói tay là ngắt được cành lá non mởn mơ như mời gọi. Xe đưa chúng tôi qua những kiến trúc cổ xưa của London như Big Ben, The London Eye là một vòng tròn cao 135m, có 32 xích đu gắn trong vòng tròn đó để có thể đưa du khách lên đến đỉnh mà nhìn ngắm quang cảnh chung quanh, Tower Bridge, Trafalgar Square, The Blooding tower (Tower này là nơi hành quyết của những người bị thất sủng). Chúng tôi không vào nhưng xuống tàu chạy trên sông Thames ngắm cảnh hai bên bờ sông thơ mộng. Đây là dòng sông có lúc nước dâng cao 25 mét (tides of Flooding) làm lụt lội nguy hiểm! Đến giữa trưa chúng tôi trở lên bờ để đi dự lễ trưa tại nhà thờ St Paul’s Cathedral vì nghĩ đó là thánh đường Công Giáo, nhưng đến nơi thì thánh lễ cũng vừa xong, mà nhà thờ này lại thuộc Giáo Hội Anh Giáo.

Tôi xin dừng lại nơi đây để nói rõ hơn về ngôi thánh đường đồ sộ này. Nhà thờ này được xây năm 604AD để dâng kính thánh Phaolo. Lúc đầu làm bằng gỗ, nhưng đến năm 675 thì bị hỏa hoạn phá hủy. Sau bao nhiêu thăng trầm, xây đi xây lại sau những lần bị phá hủy, nhà thờ sau này được xây lại bằng gạch, xây rập khuôn của Vương Vung Thánh Đường Thánh Phêrô ở Vatican Rome. Khi vua Henry VIII, bị phạt vạ vì tự tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo thì ngôi thánh đường này thuộc về Giáo hội Anh Giáo, ngai tòa Giáo Chủ Westminter được đặt nơi đây. Queen Elizabeth II vừa là Giáo Chủ vừa là vua nước Anh nên chỉ có Tổng Giám Mục thế quyền Vua để lèo lái giáo hội Anh Giáo.

Nơi thánh đường này thường có những biến cố quan trọng xảy ra như năm 2012 Queen Elizabeth II dự lễ kỷ niệm 60 năm bà Đăng quang 1952-2012 (Diamond Jubille), đám cưới của hoàng tử Charles và công nương Diana Spencer vào năm 1981. Có mộ phần của vị Thủ tướng lừng danh trên thế giới là Sr. Winston Churchill (1874- 1965), có American Memorial nơi tưởng nhớ các binh sĩ Mỹ đã bỏ mình khi đến giúp giải phóng nước Anh trong thế chiến thứ II và còn rất nhiều phần mộ của những bậc anh hùng, nổi danh khác… Thánh đường được trang hoàng rất nhiều tác phẩm lừng danh bằng nghệ thuật Mosiacs. Vì là ngày chủ nhật du khách chỉ được vào xem riêng rẽ, không có tour và cũng không được chụp hình. Đang thả bộ nên chúng tôi băng qua thánh đường Westminter Abbey cũng thuộc Anh giáo, Ngôi thánh đường này được xây bởi các thày dòng Benedicto (Monastery) do thánh Dunstan từ năm 909-988, sau đó đã bị xung vào gia sản của hoàng gia Anh vào năm 1065. Các vua Anh làm lễ đăng quang ở đó và càng ngày họ xây cất thêm như xây thêm hai tháp cao được xây năm (1734-1745), tô điểm thêm những nét huy hoàng đầy nghệ thuật. Trong nhà thờ này có mộ phần của Nữ Hoàng Elizabeth I (1553-1603). Vì là ngày chủ nhật, nên chúng tôi được tham dự thánh lễ chủ nhật theo nghi thức Anh Giáo. Vì đi tham dự Thánh lễ nên chúng tôi có cơ hội vào tận trong cùng nơi cung thánh mà khách du lịch không được vào. Nơi đây chúng tôi được nhìn thấy bàn thờ chính, ngai của vua ngồi mỗi khi đăng quang, và chỗ của ca đoàn (The all-boy Westminter Abbey choir School). Đây là ca đoàn của nhạc viện độc nhất của nước Anh, họ hát hằng ngày ở đây cùng với dàn đờn Organ vĩ đại có từ năm 1937 khi vua George VI lên ngôi. Tham dự thánh lễ của Anh Giáo, hầu hết giống như bên Công Giáo và tôi thật vui mừng vì khi họ đọc Kinh Tin Kính cùng như Kinh Lạy
cha thì không có gì khác với Công giáo. Tôi rất ngạc nhiên trong hạnh phúc khi biết Anh Giáo dùng cùng một lịch phụng vụ Lời Chúa của Công giáo nên bài đọc, đáp ca, và Tin Mừng trong thánh lễ Chủ nhật hôm đó đều giống nhau. Tôi thầm cầu xin Chúa cho sự hợp nhất giữa những người tin vào Chúa, Chúng tôi ra về với niềm hy vong tràn đầy.

Trở lại nhà thờ chính toà Công Giáo để dự lễ Chủ Nhật, nhưng lại bị trễ nên chúng tôi về lại hotel để nghỉ ngơi và sau đó được gặp một người cậu của Simon (con rể của Kim). Ông tên Brandon, là thày giáo dạy về Art, có tuổi nghề 25 năm và cũng là nhà văn, chuyên viết truyện cho trẻ em. Hàng ngày ông phải lấy xe lửa để lên London dạy học, hiện giờ ngoài dạy học viết văn ông còn chăm sóc người em gái bệnh tật, bà ta không muốn vào nursing home (nhà dưỡng lão) mà chỉ muốn được săn sóc bởi người em trai rất hiền lành vui vẻ này. Ngồi nghe ông kể chuyện với nét mặt vui cười, hòa nhã và khiêm nhường trong lời nói, tôi như thấy Chúa đã gửi cho chúng tôi một ông thánh, ông sống vì người khác!
Đưa ông ra bến xe lửa xong, chúng tôi lại thả bộ đến thánh đường Westminter để dự lễ Chúa nhật, rồi lại thả bộ về một cách thư thái, và còn biết chỗ dể đi mua thức ăn Tàu. Đem về đến hotel, hai chúng tôi có bữa tối thật ngon miệng và thêm một đêm ngon giấc tại London.

Ngày Jan-27 là ngày đầu tuần, sáng sớm chúng tôi lấy tour đi chơi xa. Trước tiên xe Tourist Bus đưa chúng tôi đến Windsor Castle cách London 2 giờ xe chạy. Người ta cũng có thể ngồi thuyền trên giòng sông Thames để đến đây. Đây cũng là một trong những lâu đài của Hoàng Gia Anh. Khi xưa, vào năm 1070 vua William the Conqueror V đã xây nơi đây một thành vòng cung để bảo vệ London. Trong hoàng thành có ngôi thánh đường St George, nơi mà hoàng gia tham dự thánh lễ và cầu nguyện. Có vào bên trong, mới thấy vẻ huy hoàng tráng lệ của cung đình. Từ cái bộ trà kỷ, bộ ngự yến, đến ghế ngồi phòng ăn cho đến tấm thảm trải nhà đều toát lên vẻ sang trọng cực kỳ. Cả ngàn ngàn thứ được lưu trữ từ đời vua này đến vua kia cho đến bây giờ. Điểm nổi bật là họ tôn trọng những kỷ vật từ thủa xa xưa đến giờ mà không bị tiêu hủy hay đánh cắp bởi người đến sau. 

Nhìn người mà nghĩ đến tổ tiên ta bao đời dựng nước, cũng đã có những trang sử vẻ vang như các triều đại Đinh Lê Lý Trần. Thế mà hầu như không còn những công trình hay kỷ vật lưu lại cho hậu thế… Buồn thay hơn 4000 năm dựng Nước! 

Mải mê mẩn chụp hình và thăm chỗ này nơi nọ nên chúng tôi đã bị lạc hướng không biết đi ra. Rất may khi chúng tôi tìm được lối chạy ra thì mọi người đã ngồi trên xe đông đủ và đang chờ hai chúng tôi để cho xe chạy. Thật hú hồn! Đây là bài học nhớ đời!!!

Rời nơi đây, chúng tôi dõi mắt nhìn cánh đồng bao la thuộc gia sản của Hoàng gia. Các trại nuôi heo bò, ngựa đều theo phương pháp tự nhiên. Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cách nuôi heo ở xứ sở văn minh này. Họ thả heo trên cánh đồng cỏ, họ làm nhà thấp thấp cho heo ngủ về đêm, vì thế heo được rong chơi ngoài trời cả ngày, được hấp thụ khí thiêng trời đất. Nhớ lại con heo Mọi của quê tôi, nông dân họ cũng thả chạy rong trong vườn như thế. Có lẽ vì thế mà thịt heo nó ngon ngọt và thơm tho chăng? Suy nghĩ bâng quơ xe đến Stonehenge lúc nào không biết.

Đây là nơi tôi vẫn thích đến để thấy tận mắt những khối đá chồng lên nhau một cách mỹ thuật và rất đỗi khoa học. Mặc dù không có ximăng hay móc sắt gắn vào để giữ thăng bằng, vậy mà đã trải qua 5000 ngàn năm vẫn đứng vững. Tôi thầm nghĩ Chúa là Đấng sáng tạo bao là kỳ công rồi lại ban cho con người khối óc để kiến tạo, tăng thêm vẻ đẹp những kỳ công Chúa đã tạo dựng. Ân huệ đặc biệt Chúa chỉ ban cho con người mà không loài vật nào có được. Tạ ơn Chúa đã cho con được làm người. Tôi thầm hát: “Như phiến đá mòn trơ với thời gian, sống giữa nhân gian vẫn nằm vô tình. Con nhìn mình chẳng có thương yêu để mà dâng Ngài…” Vâng, lạy Chúa xin cho con là viên sỏi nhỏ bé để lót đường cho những dấu chân tiến bước để mọi người nhận biết Chúa qua những kỳ công mà Chúa đã tạo dựng!

Xe lại đưa chúng tôi thêm một địa điểm khác là Bath City. Đây là một thành phố cổ đã có từ năm AD 43, khi người Romans tới xâm chiếm nước này. Các chung cư được xây dựng trên triền đồi của dòng sông Avon. Vua thứ nhất của nước Anh (King Edgar) đã được đăng quang tại đây năm 973. Nhờ có dòng suối nước nóng nên người La Mã đã xây cất những hồ tắm rất đổi nghệ thuật, từ hững phiến đá lót sàn, hồ bơi, hồ ngâm mình rất khoa học để tận dụng dòng nước nóng thiên nhiên đưa vào hồ và thoát ra ngoài mà không bao giờ dòng nước bị vẩn đục, lúc nào cũng trong veo, khung cảnh thật nên thơ và ấm áp, vì thế nơi đây là chỗ tắm và thư giản cho các vua, quan. Ngày nay là chỗ cho du khách đến nghỉ ngơi, tắm nước suối nóng thiên nhiên. Đó cũng là nhờ công của nữ hoàng Anne 1702 cổ võ để nơi đây trở thành thành phố của mọi người và đã được Unesco công nhận là di sản thế giới!

Trời đã về chiều, chúng tôi trở lại London để di chuyển lên mạn Tây Bắc nơi Kim sẽ họp. Về đến hotel, lấy hành lý và gọi taxi chở chúng tôi đến quận Camberley. Trời đã sụp tối nên chúng tôi được ngắm cảnh London về đêm. Cảnh đẹp vô cùng vì nhìn dòng sông Thames êm đềm chảy quanh, ánh đèn muôn màu làm lung linh những đợt sóng li ti, như thầm nhắc cho tôi đây là dòng sông êm đềm lượn khúc… Ra ngoại ô được dịp nhìn ngắm sao trời giữa không gian bát ngát. Trăng sáng lấp lánh trên bầu trời. Tạ ơn Chúa đã tạo dựng muôn vạn kỳ quan mà kỳ quan tuyệt vời nhất chính lại là con người! Tới hotel thì trời đã khuya. Nhận phòng xong, chúng tôi tắm rửa để rũ đi bao vết bụi của một ngày du ngoạn. Lên giường với bao niềm vui của một ngày đầy hồng phúc.

Ngày thứ ba 28-1 Kim đi họp, tôi còn lại một mình. Dùng điểm tâm xong, tôi hỏi
đường đi nhà thờ, họ chỉ nếu đi bộ phải mất 45 phút. Nhìn mưa rơi và vẫn còn mệt vì chuyến đi hôm qua nên tôi quyết định nằm nhà, ngủ cho lại sức. Cảm thấy nhớ nhà, tôi ngồi nhìn mưa rơi, bất chợt nhìn thấy chú sóc đi tìm mồi. Ánh mắt của chú lấm lét nhìn quanh xem có kẻ thù không. Mũi chú hít hít để đánh mùi thức ăn. Những bước chân của chú đi thật khe khẽ như sợ ai nghe được… Cuối cùng chú cũng tìm được một hạt dẻ. Thế là không còn chút e dè, chú nhanh nhẹn nhảy phóc lên cây. Nhìn đôi chân nhỏ xíu mà bám vào thân cây to tướng, miệng thì ngậm hạt, vậy mà chú thoăn thoắt leo thật nhanh lên một cành cây và chú bắt đầu nhâm nhi hạt dẻ một cách thích thú… Kỳ công tạo dựng của Thiên Chúa quá ư tuyệt vời, từ cành cây kẽ lá, từ muôn thú đến con người Chúa đều ban cho kỷ năng tuyệt vời để kiếm sống. Còn tôi được làm người, hạnh phúc biết bao, vậy mà nhiều khi tôi lại than thân trách phận. Nhờ chú sóc này gợi hứng, tôi viết vội mấy dòng thơ:

London phố sương mù,
Suốt ngày trời âm u.
Mưa phùn rơi rả rít,
Chùng bước khách viễn du.

Nhìn qua khung cửa sổ,
Bắt gặp chú sóc con.
Đôi chân dẫm lối mòn,
Kiếm ăn ôi sao khổ!

Gió rung rinh cành thưa,
Bão tố đâu có chừa,
Rừng thông cao sừng sững,
Thở lạnh… dưới cơn mưa!!!

Nghĩ lại ta quên chăng?
Mù sương có lúc nắng.
Đêm đen có vầng trăng.
Tình đẹp có chị Hằng!

Vp 29-1-2014

Ngày 29-1-2014. Hôm nay Kim họp tại hotel, nên tôi đi ăn sáng với Kim. Tôi trở lên phòng cảm thấy mệt, có lẽ vì ăn no quá chăng. Buồn ngủ quá thể, nên tôi đánh một giấc đến trưa. Nằm nhà nhìn mưa rơi, nhớ nhà nhiều nhưng không liên lạc được. Đến tối Kim gọi thức ăn lên phòng và hai đứa có bữa ăn ngon. Đêm nay dùng IPad của Kim và vui nhiều vì liên lạc được với gia đình. Nhìn thấy mặt bố Hiển, Antôn và Daisy, buồn cười nhất là Daisy khi nó nhìn thấy hình mẹ Ph, nghe tiếng nói mà không thấy người nên nó hít hít vào IPad, thấy thương hết sức! Đêm Kim dẫn đi Spa để tập thể dục. Rất phục ý chí của Kim, suốt ngày hội họp làm việc và hầu như bất cứ lúc nào company của Kim ở Canada liên lạc cần giúp là Kim tận tình chỉ dẫn, không cằn nhằn. Kim rất giỏi về rất nhiều phương diện, nhưng rất khiêm nhường, đơn sơ và thân tình với tất cả mọi người.

Nhiều lần mình nói Kim đừng trả lời, đừng mở email của họ, nhưng Kim trả lời vì họ cần mình. Đây là bài học cho mình, họ cần nên mới gọi nhờ giúp, chứ đâu ai muốn làm phiền người khác… Lòng bác ái không có chữ “Đừng”! Người khiêm nhường luôn là người biết lắng nghe và giúp đỡ mọi người. Có sống với Kim mới học hỏi và biết về Kim nhiều hơn về lòng đạo đức về cách sống đơn sơ. Tạ ơn Chúa đã cho con được nhìn ra những điểm tốt nơi bạn và nhờ thế con nhận ra bao là khuyết điểm của bản thân con!

Ngày 30-1. VN là ngày 30 đón Giao Thừa, đón Xuân Giáp Ngọ. Nhớ về quê hương, nhớ gia đình đoàn tụ mỗi độ Xuân về. Năm nay vì tôi ham đi chơi xa, bỏ bố con ở nhà đón Tết, không có Ngũ Quả, không có lì xì cho các con, không chúc tuổi nhau và cũng không có bữa cơm gia đình…!

Tôi thả bộ một mình trên những con đường thật yên tĩnh, những ngôi nhà riêng được bao quanh một khu vườn có nhiều cây cối. Những Villa này rất đẹp và lối kiến trúc đặc thù của người Anh. Thấy ngôi giáo đường, tôi lần bước vào và khi biết đó là nhà thờ Anh giáo, nhà thờ St Paul, tôi xin vào cầu nguyện vì mỗi khi thấy nhà thờ với tên của thánh Phaolô, tôi lại nghĩ đến thánh Phaolô tông đồ dân ngoại. Nếu không có thánh Phaolo rao giảng cho người ngoại thì làm sao đạo Chúa được loan truyền khắp nơi và tôi được làm con Chúa nên tôi rất biết ơn Ngài.

Đi lòng vòng rất xa nơi tôi ở, khoảng 2 tiếng tôi đi bộ, có những đường vắng và cây cối vừa cao, rập rạp như rừng, tôi hơi sợ. Nói đến đây tôi mắc cở với chính mình, vì tôi nói với Kim tôi không sợ gì cả. Một mình đi đâu cũng được, nhưng hôm nay đi bộ quá nhiều, trời lúc mưa lúc nắng, tôi chỉ sợ nếu té ngã hay lạc lối về thì Kim phải lo lắng kiếm tìm. Hơn nữa lúc đi tôi không mua insurance. Do đó mà trong lòng cứ lo sợ vớ vẩn…! Chúa đừng buồn con nhen, vì con nhát đảm nên thánh lễ Tết năm nay con không thông công với gia đình được! 31-1-2014. Ngày đầu năm tết VN. Hôm nay Kim hết họp nên hai đứa thả bộ ra phố để tìm nhà thờ Công giáo. Hỏi người qua đường đa số biết nhà thờ Anh Giáo nhưng nhà
thờ công giáo thì rất hiếm. Sau cùng cũng tìm ra được một ngôi thánh đường nhỏ được xây từ thế kỷ thứ 19. Cha vừa dâng lễ xong, hai đứa vào cầu nguyện, đọc kinh Kính Lòng Thương Xót Chúa, cầu nguyện cho quê hương cho gia đình. Ngồi trong thánh đường nhỏ bé này nhưng tôi cảm thấy ấm cúng làm sao vì có Chúa Giêsu Thánh Thể? Chỉ có nhà thờ Công Giáo mới có Phép Thánh Thể vì thế bầu khí linh thiêng, thánh thiện và ấm cúng cách lạ lùng. Tôi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa mãi mãi ở lại với đoàn con trong Bí Tích tình yêu này.

Thứ bảy 1-2- 2014. Mới mà đã hết một tuần ở London! Sáng nay, hai đứa ra phi trường sớm để lấy chuyến bay đi Barcelona (Tây Ban Nha). Nôn nóng để đi thăm những thắng cảnh của thành phố nổi tiếng của TBN, nên chỉ nhận phòng, bỏ valise vào hotel là hai đứa rời nhà ngay. Điểm đầu tiên chúng tôi đến viếng là Vương Cung Thánh Đường Thánh Gia (Sagrada Familia). Đây là một thánh đường vĩ đại, nguy nga và rất nổi tiếng do Kiến Trúc Sư Anthoni Gaudi vẽ kiểu. Ông là một thiên tài về nghệ thuật. Ông đã đưa từng sinh vật mà Thiên Chúa tạo dựng để tô điểm ngôi thánh đường, từng loài thú nhỏ bé cho đến từng loại cây cỏ cũng được cho trang trí lên các vách đá, các ngọn tháp, rất chi li, rất sống động đầy nét đẹp của muôn loài, muôn vật… Ông xứng đáng với tên gọi là God’s Architect. VCTĐ đã được khởi sự xây từ năm 1918. Tuy nhiên cho mãi đến bây giờ những cảnh trí trang điểm mà ông đã đưa vào họa đồ vẫn chưa hoàn thành. Người ta hy vọng thánh đường sẽ được hoàn tất vào năm 2026 kỷ niệm 100 năm ngày ông Gaudi tạ thế. Chúng tôi đã book vé vào cửa từ Toronto, nhưng vì cứ tưởng tới cửa là được vô trong, nhưng họ đã không cho vào vì không có code để check in vào cổng. Chúng tôi đi vòng ngoài và chụp hình, máy ảnh quá nhỏ không thể lấy được những đường nét tuyệt vời của các hình trang trí từ trên nóc…! Nhìn đoàn người sắp hàng rồng rắn để vào cửa mới thấy nơi đây đã là nơi hấp dẫn khách du lịch như thế nào dù thời điểm này vẫn còn là mùa đông! Chúng tôi không muốn về vì đến 6 giờ sẽ có thánh lễ, nên đứng sớ rớ nơi cổng. Bất ngờ gặp lại cô soát vé lúc chúng tôi mới đến, cô hỏi chúng tôi đã vào chưa? Chúng tôi trả lời là chưa vì không biết lấy code vé nơi đâu. Cô ta nhìn chúng tôi có vẻ thương tình nên cho chúng tôi vào. Thế là hai đứa chạy ngay vào để kính viếng bên trong. Tôi không thể viết ra hết những điều trông thấy vì cũng như bên ngoài, kiến trúc nguy nga, tráng lệ đến bực nào. Nhìn trần thánh đường cao vút, chạm trổ tinh vi, hàng cột bằng đá cẩm thạch vừa to vừa cao nâng đỡ vòm, tôi thấy tôi quá ư là nhỏ bé trong khung cảnh này. Các bàn thờ phụ dọc hai bên hành lang với các ảnh thánh được tạo hình bằng nghệ thuật Mosiacs với những màu sắc làm nổi bật sự thánh thiện, cao sang và rất đỗi huy hoàng! Tôi không đủ trình độ viết để diễn tả hết những đường nét hài hòa, đẹp đẽ nơi đây. Có đến nơi, mới thấy cái vĩ đại, cái thông minh, cái hồn sống của thiên tài Gaudi. Ông còn nhiều kiến trúc khác như Parc Guell, La Pedrera, Casa Calvet, Casa Batllo… mà chúng tôi không có thời gian để đi xem. Đúng 7 giờ chiều, chúng tôi xuống basement nơi có hầm mộ của các yếu nhân được chôn cất tại VCTĐ này để dự thánh lễ. Nhờ thế chúng tôi đã được nhìn thấy mộ phần của Anthoni Gaudi. Ông được an nghỉ trong VCTĐ này nơi mà lúc còn sống ông đã dọn vào trú ngụ để trực tiếp làm việc với cả tâm huyết, cả linh hồn và thể xác để cống hiến một công trình to lớn hầu làm vinh danh Chúa và nhất là dâng kính Thánh Gia. Tạ ơn Chúa đã cho con có cơ hội được nhìn ngắm những kỳ công mà Chúa đã cho con người nối tiếp những công trình của Chúa.

Chủ Nhật 2 Feb-2014. Từ hotel, chúng tôi lội bộ đến văn phòng bán vé đi các tour… Đi tới đi lui, có lẽ vì còn quá sớm nên các cửa văn phòng thương mại, office vẫn còn đóng, nên chúng tôi không tìm ra địa chỉ của văn phòng tour du lịch. Do đó chúng tôi phải vào nhà hàng, quán coffee tìm hỏi. Ngỡ ngàng, vì khi vào quán thì chúng tôi gặp khách hàng đang uống bia mà không phải café, nhưng đã lỡ vào nên chúng tôi cũng hỏi thăm. Họ rất vui để chỉ dẫn nhưng chúng tôi chẳng hiểu gì vì họ nói tiếng Tây Ban Nha, nên chúng tôi cứ đi theo hướng tay chỉ của họ. May mắn làm sao, một ông ngồi uống bia trong quán đi theo sau chúng tôi, ông cũng không thấy địa chỉ nên đã dùng điện thoại cầm tay để gọi cho văn phòng. Thật tức cười, văn phòng ở ngay trước mặt mà chúng tôi không biết vì họ vẫn còn đóng cửa!

Chúng tôi cùng hai người khách từ Taiwan cũng đi tour lên Montserrat. Trên đường đi, chúng tôi có kể chuyện lúc sáng sớm hỏi đường và thắc mắc vì sao người Tây Ban Nha lại uống rượu ban sáng. Bà tour guide nói đó là tục lệ của dân quê từ xưa, giống như mình warm up mỗi sáng cho nóng máy. Vì đói bụng nên tôi có xin bà dừng lại chỗ tiệm bánh nào đó để mua ít bánh mì. Bà đề nghị sẽ đưa chúng tôi vào nhà hàng nổi tiếng ở vùng Montserrat để dùng bữa sáng. Bốn chúng tôi vui vẻ nhận lời. Vào nhà hàng chúng tôi lại một phen bỡ ngỡ vì bàn ăn nào cũng có mấy ông ngồi uống rượu. Tôi gọi coffee, nhưng bà tour guide bảo là bữa ăn sáng truyền thống của người TBN không phải thế, hãy ngồi và chờ họ đưa thức ăn ra thì sẽ biết. Thế là họ đem ra một chai rượu vang đỏ, một bình có vòi dài và mấy cái ly uống rượu, sau đó họ đem thức ăn ra như các loại ham, trái oliu, tomatoes, tỏi tươi… Trước hết, họ mở chai rượu, đổ vào cái bình có vòi dài và dạy chúng tôi cách cầm bình rượu lên, ngửa cổ ra phía sau và trút rượu vào miệng. Thấy vui vui và lạ nên chúng tôi đều thử cách uống rượu kiểu đó. Chúng tôi được thưởng thức một bữa ăn sáng thật ngon. Cũng may bốn người uống thết chai rượu vang mà vẫn tỉnh bơ không ai bị say. Vui ghê!

Sau bữa ăn sáng chúng tôi trực chỉ đến Montserrat. Nơi đây cũng là một kỳ công của Tạo Hóa cách Barcelona 38 cây số. Montrserrat là một dãy núi răng cưa, có độ cao 1236 mét so với mặt biển, cả một dãy núi với những hình thù khác nhau, có dãy nhô lên cao trông như những ống khói trên những mái lâu đài cổ kính. Trên dãy núi này, dòng Benedictine đã xây tu viện từ thế kỷ thế thứ 11. Hiện nay các tu sĩ đã dọn đến một tu viện mới để chiêm niệm và dành trọn vẹn cả gia sản của tu viện cũ với những phòng ốc, những di tích lịch sử từ khi kiến tạo tu viện này cũng như ngôi VCTĐ nguy nga nơi đây để đón khách thập phương. Có được cơ may đến đây tôi mới nhận ra được trọn vẹn những kỳ công mà Thiên Chúa sáng tạo cho con người. Núi non hùng vĩ, nhìn xuống bờ biển sóng nước chập chùng, sóng đầu bạc trắng dưới ánh nắng lung linh, bầu trời trong xanh, gío hiu hiu mát làm cho tâm hồn mình thật bình an thanh thản, như đi lạc vào cõi thiên thai…! Chúng tôi đi bộ từ dưới lên tới 2/3 ngọn núi để ngắm cảnh đẹp đất trời. Sau đó, nếu muốn vào bên trong VCTĐ chúng tôi phải đi qua một công trường thật rộng để vào bên trong đại thánh đường. Vì đang giờ lễ nên chúng tôi không được đi thăm viếng từng nơi như lòng ước muốn, tuy nhiên chúng tôi cũng đã ghi lại vài hình ảnh nơi mà thánh Ignasio de Loyola (1491-1556) đặt thanh kiếm để từ bỏ nghiệp binh đao và dấn thân rao giảng Tin Mừng của Chúa. Cũng nơi đây, Thánh Ignasio đã viết ra linh đạo của dòng Tên vì Ngài là đấng sáng lập Dòng Tên. Chúng tôi có đến phòng “Từ Bỏ”. Đây là nơi khách hành hương tự nguyện từ bỏ những gì mà mình khấn hứa từ bỏ. Tôi thấy có người bỏ áo cưới, đồ vật của các em bé, thậm chí bỏ cả sách. Tôi thắc mắc sao lại bỏ sách, nhưng lại suy nghĩ sách cũng có loại tốt loại xấu, biết đâu họ từ bỏ thói xấu khi đam mê đọc những sách đồi trụy thì sao! Còn tôi, tôi có bỏ được thói xấu nào không sau khi xuống núi, chẳng lẽ thú đam mê của tôi là đọc sách, tôi phải bỏ sao? Có thể lắm chứ, vì khi tôi cầm được cuốn sách là tôi không thể bỏ ra cho tới khi đọc xong, như vậy đâu có tốt, phải vừa đọc vừa suy và phải có chừng mực nữa. Vì không có cơ hội đi thăm những cảnh bên trong như nơi các tu sĩ chiêm niệm (Cloister), bảo tàng viện, chỗ ăn ở, kinh nguyện của các tu sĩ từ nhiều nhiều thế kỷ trước. Càng nhìn càng khâm phục trí thông minh, tài thiết kế và công sức của các vị ẩn tu thời cổ xưa. Thời mà chưa có máy móc tân tiến như hiện nay. Du khách đến Barcelona, không mấy ai lại không đi kính viếng nơi này, nơi đây có tượng Đức Mẹ Đồng Đen (Black Virgin) rất linh thiêng mà theo tương truyền Mẹ là Đấng bảo hộ cho dân tộc TBN. Vẫn còn muốn đi xem cho hết, nhưng không thể vì phải theo giờ giấc của tour. Chúng tôi xuống núi và lên xe trở về Barcelona. Chiều hôm đó chúng tôi thả bộ đi đến nhà thờ Chính Tòa để dự lễ Chủ Nhật.

Thứ hai 3-Feb, 2014. Hôm nay chúng tôi đi thăm các thắng cảnh theo tour hop-on, hop-off, xe bus trần, chở chúng tôi đi những lộ trình có những nơi đặc biệt, muốn xuống chỗ nào tùy ý, xem xong thì lại leo lên xe đi tiếp. Vì không có nhiều thời gian, nên có rất nhiều cảnh đẹp như Vận Động Trường của Thế Vận Hội Olympic 2012, Hospital de Sant Paul, the Agbar tower, Museum và Garden city... Càng nhìn ngắm những công trình xây cất của họ càng thấy được đâu là nét tuyệt vời của các kiên trúc Âu Châu, đặc biệt kính viếng VCTĐ Đức Mẹ Biển Khơi (Santa Maria Del Mar). Đây là một ngôi thánh đường cổ nhất xây từ thế kỷ thứ 7, kiểu Gothic, trải qua bao biến cố xảy ra, bao nhiêu lần được xây lại và xây thêm để có một ngôi thánh đường tuyệt đẹp. Những người đi biển thường ghé vào đây để cầu nguyện với Đức Mẹ trước khi khởi hành. Thế kỷ thứ 15, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là cửa ngõ cho công việc truyền giáo đến khắp nơi. Chính nhờ các nhà truyền giáo thánh thiện, nhiệt thành của đất nước này, với sự hợp tác của các cha thừa sai người Bồ Đào Nha và Pháp mà Giáo hội lan rộng đến khắp nơi, nhất là vùng Châu Á trong đó có Việt Nam.

Đến Tây Ban Nha mà không không đặt dấu chân mình lên bãi cát trắng mịn của bờ biển Địa Trung Hải thì cả là một thiếu sót lớn, nên hai chúng tôi cố dành thời gian để chạy ra biển… Chúng tôi đi dọc bờ biển, dưới ánh nắng ấm, gió hiu hiu mát… lượm những vỏ sò bé tí đủ màu… để rồi cảm thấy tâm hồn mình thật nhỏ bé trước cảnh trời nước mênh mông…

“Như con dã tràng se cát biển đông
Sóng nước mênh mông xô dạt công trình
Con nhìn mình chẳng có công chi. Để mà dâng Ngài…

Lạy Chúa chúng con tạ ơn Chúa vì muôn hồng ân Ngài đã ban cho, dù con bất xứng. Đã qua mấy ngày ở Barcelona, thời gian qua nhanh quá, chúng tôi phải rời thành phố này mà trong lòng còn luyến tiếc vì cảnh đẹp của thành phố, với những dãy phố xá khang trang, nét đẹp quý phái và rất sạch. Người dân rất thân thiện và ung dung trong cách sống. Hẹn có dịp chúng tôi sẽ trở lại Spain để thăm viếng thủ đô Madrid.

Barcelona, Barcelona!
Tia nắng chan hòa.
Lung linh sắc hoa!
Vạn lần cám tạ,
Con kính dâng Cha.
Tạm biệt Barcelona!

Rời Barcelona, máy bay đưa chúng tôi đến Lisbon thủ đô của nước Bồ Đào Nha
(Portugal). Đến nơi trời đã khuya, chúng tôi đi ngủ ngay để sáng sớm hôm sau lấy xe bus đi thánh địa Fatima.

Thứ Ba 4-2-2014. Vừa đến nơi, hai chúng tôi đi bộ qua Đền Thánh Mẹ Fatima cho kịp giờ lễ tại nơi cây sồi khi xưa Đức Mẹ hiện ra. Mây đen quần vũ trên trời, mưa bắt đầu rơi, chúng tôi vẫn quỳ bên Mẹ, cùng với những người hành hương tham dự Thánh lễ. Mưa ngày càng nặng hột, không thể về được, thế là chúng tôi chạy vào trong Vương Cung Thánh Đường để trú mưa, nhờ thế chúng tôi được dự thánh lễ lúc 3 giờ chiều, và sau lễ còn đi đàng Thánh Giá.

Chúa biết rõ con không siêng năng đâu nhưng vì mưa quá, nên con ở lại với Chúa. Con có chút hổ thẹn vì con không ở lại bên Chúa do lòng con yêu mến, nhưng bởi vì mưa!! Con xin lỗi Chúa, Chúa đừng buồn con nhen. Trời mưa càng lúc càng lớn nên chúng tôi không thể về khách sạn. Cái lạnh nó thấm vào người nên đứng mà run lập cập, vừa bụng đói nên tôi cảm thấy khó chịu quá đỗi. Sau cùng, hai đứa quyết định đi trong mưa. Ra khỏi cửa mới thấy cả bầu trời âm u, gió rít từng cơn và mưa nặng hột đến nỗi hành lang của VCTĐ đầy nước mưa tràn vào!!! Kim nhìn thấy một ông hướng dẫn du khách đang đứng trong tay có cầm cây dù, thế là Kim mạnh bạo đến gần để mượn dù, ông hơi ngần ngừ vì nơi công cộng ai biết ai mà cho mượn. Nhưng nghĩ thế nào, ông cũng cho Kim mượn và hứa sẽ trả ngay, hai đứa vui quá thể, lội nước ra về, Vừa ra khỏi cổng quảng trường thì thấy có tiệm bán ảnh tượng, họ bán cả áo mưa, thế là hai đứa mua hai cái áo mưa và mặc vào và trở lại đền thờ trả dù cho ông hướng dẫn rồi bắt đầu đi tìm hàng quán để ăn. Vì chưa đến 7 giờ tối nên tất cả quán ăn đều đóng kín. Đi hoài vừa mệt vừa đói, nên chúng tôi lủi thủi đi. Rất may chúng tôi gặp được một bà Á châu, không biết người nước nào. Chúng tôi cúi chào bà, bà lại tưởng mình là người Nhật (vì bà là người Nhật) nên chào lại và hỏi thăm. Khi biết hai đứa chúng tôi từ Canada đến và đang đi tìm nhà hàng ăn tối, bà cho biết mùa này không phải là mùa đón du khách nên nhà hàng chỉ mở cửa từ 11 giờ trưa đến 2 giờ chiều và từ 7 giờ tối đến 10 giờ đêm. Ngoài giờ đó ra họ nghỉ và đóng cửa, hơn nữa vì bị ảnh hưởng của kinh tế xuống dốc nên một số nhà hàng đóng cửa suốt mấy tháng. Vì là vùng thánh địa nên khách du lịch đến kính viếng Đức Mẹ vào những tháng cao điểm. Bà rất tốt bụng, nên hướng dẫn chúng tôi đến một địa điểm có mở cửa và bà dùng tiếng Portugal để nói với chủ quán nấu cho chúng tôi ăn. Xong nhiệm vụ, bà kiếu từ ra về. Gian phòng ấm cúng, ly càfê nóng, chúng tôi nhâm nhi cho ấm lòng trong khi chờ họ nấu xong thức ăn. Chúng tôi đã có một bữa ăn ngon hết biết có lẽ đói chăng? Nhưng phải nói thức ăn vừa ngon lại vừa rẻ. Trở về hotel, tắm nước nóng rồi lên giường ngủ. Chúng tôi đồng thanh ca tụng và tạ ơn Chúa vì Chúa đã đưa người giúp đỡ chúng tôi.

Thứ tư 5-2-2014. Hôm nay chúng tôi lại trở vào đền thánh, lẩn quẩn bên Mẹ, đốt nến cầu xin cho bà con bạn hữu, những anh chị em đau ốm bệnh tật, tham dự thánh lễ tại VCTĐ. Tại đây mỗi đầu giờ đều có thánh lễ trọng thể. Ngày hôm nay chúng tôi dành thời gian để đi chuộc các ảnh thánh và mua quà lưu niệm. Đồng thời gọi Taxi để đi đến Grutas Moeda (Hang Đồng Tiền), một động nhỏ cách Fatima 3 cây số. Động không to lớn như những nơi khác, nhưng đẹp và sạch sẽ, càng đi càng nhìn thấy những kỳ công mà Chúa tạo dựng. Mỗi nơi một vẻ đẹp tuyệt vời, cho dù những hang động nằm sâu dưới lòng đất. Động Moeda này nằm sâu 150 mét dưới lòng đất. Và nơi đây ta có thể thấy lấm tấm những mảnh vàng nằm dước nước, tạo cho những vũng nước long lánh màu vàng rất đẹp…! Chúng tôi cũng được đến thăm làng quê của Lucia, Jacinta và Francisco, viếng nhà thờ mà ba em đã sinh hoạt và chịu lễ Lần đầu với giấy chứng nhận còn lưu lại.

Thứ năm 6-2-2014. Hôm nay chúng tôi đi tour đến thị trấn Tomar đến thăm Convent of Chris. Đây là một trong một hoành thể lâu đài cổ xưa được xây từ thế kỷ thứ 12. Chiếm một khu vực rộng lớn 45 mẫu, nằm trên một đỉnh đồi. Các kiến trúc trong khu vực này được kết hợp hài hòa giữa Đông và Tây. Tường thành bao quanh được lấy mẫu từ thành thánh Giêrusalem. Có nhiều Cloister như Main Cloister, Saint Barbarás Cloister. The convent of Christ được xây cất vào năm 1530-1620… được kiến trúc theo kiểu cổ và vào thời điểm khác nhau. Mỗi Cloister rất huy hoàng, hoành tráng và có những nét đẹp cổ kính khác nhau. Nhìn tận mắt những lầu đài cổ xưa, ngắm những hoa văn được điêu khắc trên cửa, trên cột, trên nền, trên tường, mới thấy đâu là nét đẹp đầy sáng tạo của người xưa!!! Khu vực the Order of the Temple được biết đến từ thế kỷ 12, một phần đã bị phá hủy khi chiến tranh xảy ra, trong số đó có một góc của tu viện này. Hòa bình sau đó, nhưng họ không xây lại mà giữ nguyên như một chứng tích của chiến tranh. Tuy nhiên, vẫn thấy được bao la và to lớn, nhờ thế du khách càng kinh ngạc hơn về mức độ hoành tráng và đặc thù của từng cảnh quan. Nơi đây đã có một thời của các tu sĩ sống đời chiêm niệm, cách sống, điều kiện sống của họ nhất là trí thông mình tuyệt vời của các ngài, chúng tôi vô cùng thán phục. Vì thế, nơi đây cũng đã được đưa vào danh sách di tích được bảo tồn của Liên Hiệp Quốc.

Sau đó, xe đưa chúng tôi qua vùng Batalha đơn sơ, với những cây ô liu và rừng cây bạc hà cao chót vót. Xe vòng qua một khu phố nhỏ, và chúng tôi trố mắt nhìn Tu Viện Batalha (Bãi Chiến Trường) diễm lệ trên mặt đất đỏ thắm vùng nầy. Nguyên thủy, tên tu viện là Đức Mẹ Chiến Thắng (Mary of the Victory), được xây cất để dâng kính Đức Mẹ Maria theo lời hứa của vua John I, sau khi Bồ đào Nha đánh bại Tây Ban Nha vào năm 1385. Vương Cung Thánh Đường này sáng sủa hơn những ngôi thánh đường cổ khác.

Từ cổng vào, từng gốc cột to lớn, đến nóc nhà, tường vách, tất cả được chạm trổ công phu tựa như những tấm ren khổng lồ trên đá (stone lace). Ngôi mộ của những chiến sĩ vô danh nằm trong một gian phòng lớn với tượng Chúa chịu nạn đã đồng hành trên chiến trường BĐN đứng uy nghiêm giữa hai người lính gác. Cứ mỗi giờ lính gác đổi phiên.

Ngọn đèn dầu ô liu trên mảnh đất linh thiêng này luôn cháy suốt ngày đêm để nhớ ơn những người đã bỏ mình cho dân tộc. Nhà nguyện Dang Dở ‘Unfinished chapel’ chạm trổ tuyệt đẹp. Đây là nơi được xây cất để an táng, lập đài tưởng niệm, lăng tẩm của những bậc vua chúa, bậc danh nhân đạo đời và những vị thánh. Riêng hai ngôi mộ của vua Joao và hoàng hậu Philippa nằm song song, tay trong tay, âu yếm như đang yên giấc. Trong nhà nguyện còn nhiều mộ khác. Mỗi đời vua, mộ được điêu khắc thật tỉ mỉ với dấu ấn và sở thích lúc sinh thời của họ. Lòng tôi lâng lâng khi nhìn lại nhhững dấu tích của một thời huy hoàng đang chìm dần trong ký ức của nhân gian.

Rời Batalha, chúng tôi đển viếng Tu viện Alcobaca, là cư sở đầu tiên của nhà dòng Citô ở Bồ Đào Nha. Tu viện được xây từ năm 1153 đến năm 1252 mới hoàn thành. Đây là tu viện Gothic lớn nhất ở BĐN, nằm gần sông trên khuôn viên rộng lớn, và có phố xá bao bọc chung quanh. Khác với cách chạm trổ tỉ mỉ cùa Batalha, bên trong tu viện màu sẳc xám trắng, từng dãy cột to lớn, thẳng tắp, uy nghiêm, hùng tráng. Rất ít ảnh tượng ngoại trừ ở các bàn thờ chính. Đặc biệt các ngôi mộ đều đặt đối diện nhau vì theo truyền thuyết những người yêu nhau sẽ được nhìn thấy nhau ngay khi ngày sống lại từ cõi chết.

Khi vừa bước vào cửa hai mộ phần của vua Pedro I và Hoàng hậu Ines de Castro thật to lớn nằm đối mặt. Hai người này có một thiên tình sử đẹp đã đi vào lịch sử của người dân Portugal. Ngôi mộ của vua Pedro được điêu khắc về cuộc đời của thánh Bernado và của Pedro và Ines. Mộ Ines khắc về cuộc đời của Chúa với đường nét tuyệt vời trên từng khuôn mặt làm nên vẻ sống động và chúng ta có thể cảm nhận được cuộc khổ hình của Chúa, cùng cảnh ngày phán xét chung. Chúng tôi được hướng dẫn đi thăm tất cả, từ những nguyện đường to lớn của các tu sĩ chiêm niệm, nhà ăn nhà ngủ của họ, đi đến nhà bếp có thể nướng 7 con bò một lần, với một hệ thống dẫn nước và cá từ sông liên tục vào nhà bếp, và hệ thống lò sưởi tuyệt vời. Họ đốt lò từ dưới bếp và hơi nóng lan tỏa khắp các phòng mà hệ thống dẫn hơi nóng được chạy theo một hệ thống ẩn trong những bức tường đá, vì thế mà các tu sĩ được sưởi ấm mà không bị khói bay theo. Càng đi sâu vào từng nơi các tu sĩ chiêm niệm sinh sống ta càng cảm phục óc sáng tạo của các ngài! Cũng tại nơi đây, đã là nơi vua Alphonso Henriques của Bồ Đào Nha được phong vương bởi Đức Giáo Hoàng. Nơi King’s Cloister này có hầu hết các tượng của các vì vua Portugal. Đến tượng của thánh Giám Mục Bernard có câu ghi như sau: “Oh, Vanity! More insanity! There are shining churches everywhere, but poor people are hungry!...”  (Tạm dịch: Ôi, phù vân! Thêm điên rồ! Nhiều nhà thờ ở khắp nơi, nhưng người nghèo thì đói khổ!...) 

Câu này đã làm tôi suy nghĩ về cái ảo vọng, cái hư không cái điên rồ của con người… Vì tất cả đều chóng qua, tất cả đều là Phù Vân!!! Sau hết trước khi bước qua cửa để ra về, mọi người đều phải bước qua một mộ phần có hình người nằm, nhưng khuôn mặt thì trơn tru, không mắt mũi, họ giải thích mộ phần đó có thể là của anh, có thể là của tôi, có thể là của một vị vương tước cũng có thể là bậc cùng đinh, nhưng sau khi chết, chúng ta không mang theo được gì ngay cả mặt của ta cũng bị mòn đi, bị chà đạp và không còn biết đó là mặt ai, dù cho là bậc vĩ nhân…! Nơi đây cũng đã được Unesco công nhận là Di Sản Thế giới vào năm 1983 (World Heritate).

Sau cùng, chúng tôi lại viếng thăm The Church of The Royal Abbey. Nơi đây các thày dòng chiêm niệm đã đến trú ngụ từ những năm 1223 với những đường nét tạc các tượng thánh giống như thật. Đây cũng là một thắng tích rất đáng xem và chỉ cần nhìn lên những bức tường, lên các cột, các trần nhà, chúng ta sẽ thán phục biết bao những đường nét tuyệt vời mà các nghệ nhân xưa đã hoàn thành. Nơi đây tường thành được cẩn gạch men màu xanh trắng, loại men sứ đặt biệt của vùng nàỵ.

Trên đường trở lại Lisbon (thủ đô của Bồ Đào Nha – Portugal), chúng tôi đi dọc theo bãi biển Nazaré đến thăm thị trấn nhỏ cùng tên. Người ta kể rằng vào thế kỷ thứ tư, một thày dòng mang tượng Đức Mẹ từ Nazareth đến đây và dấu trong một cái hang gần vực sâu cạnh bãi biển. Một ông quý tộc được Đức Mẹ làm ngựa ông thắng lại kịp thời và cứu ông khỏi rơi xuống vực khi ông cưỡi ngựa đuổi theo con nai trong đêm sương mù dày đặc. Nơi đây vẫn còn giữ lại ngôi nhà nguyện nhỏ để ghi nhớ nơi tìm thấy tượng Đức Mẹ và phép lạ này. Tượng đang được tôn vinh trong thánh đường chính đối diện với nhà nguyện này. Không riêng Nazare, mà nhiều nơi, nhiều nhà ở BĐN, ảnh Mẹ Maria được tạc trên các bức tranh bằng sành trên tường như hình ảnh người mẹ hiền đang ở gần che chở các con.

Rời Nazare, chúng tôi đến một nơi gọi là “Mouth of the Hell”. Đứng từ trên nhìn xuống, từng làn sóng thủy triều, đợt từng đợt mạnh như vũ bão đang giận dữ ập vào như muốn chụp nuốt một vật gì. Tôi cảm thấy ớn lạnh vì sợ. Và cũng như lúc ập vào, nó lại giựt ngược trở ra cuốn vào lòng biển những gì nó chụp được. Vì thế, mà có những người chán cảnh đời ô trọc đã đến đây, nhảy xuống tự tử và chưa có trường hợp nào cứu được, vì thế nơi này mới có tên như trên.

Tiếp liền chúng tôi đến một thị trấn nhỏ, cổ xưa nhất có tên gọi là Medieval Town of Ourém, có ngôi nhà thờ nho nhỏ được xây cất trên đỉnh núi cao 800 mét, vẫn còn tồn tại, có cả nhà tù và town house. Tại đây họ cho du khách nếm rượu đặc sản mà không tốn tiền. Xuống núi, chúng tôi đi bộ trên những lối đi nhỏ lót gạch và nhìn thấy có nhiều bảng hiệu với chú gà trống trông rất oai phong. Chúng tôi được cho biết câu chuyện về con gà trống như một chuyện thần thoại vì xưa kia có một người bị quan bắt vì tội ăn trộm. Ông ta nhất định kháng án là ông vô tội. Không có ai là người làm chứng cho sự vô tội của ông. Thế nên trong bữa ăn của quan hôm ấy có con gà roti trên bàn chờ cho quan dùng bữa, ông bị cáo oan đã thề là không ăn trộm và nói con gà sẽ chứng minh cho tôi. Quan toà không tin nhưng nói nếu ông vô tội con gà quay trên bàn ăn sẽ sống lại. Đó chỉ là một lời nói mỉa mai thôi của ông quan tòa. Nhưng với lòng thành, ông bị cáo đã cầu nguyện xin Chúa cứu ông, và con gà quay chín trên bàn đã sống lại thật. Do đó mà dân chúng đã xem con gà trống như một biểu tượng của người ngay lành không gian dối. Chúng tôi đã kết thúc một ngày được mở mắt mở lòng để dâng lời cám tạ Thiên Chúa.

Ngày thứ sáu 7-2-2014, hôm nay chúng tôi đi tour đến thị trấn Sintra để đến “The Palace of Pena” thăm lâu đài của các vua Bồ Đào Nha ngự trị. Nơi đây phải nói là một trong những công trình hùng vĩ. Tòa lâu đài được xây trên đỉnh núi từ thế kỷ 19 dưới triều vua Don Fernando II (1819-1885) người có công xây cất là vị Hoàng tử tài ba con của vua. Lâu đài và những công trình khác còn được tiếp tục xây cất, tô điểm thêm vào những đời vua kế tiếp.

Phải mất rất nhiều giờ để đi tham quan cho hết các chốn, các nơi mà các vua chúa sinh hoạt thường ngày. Lẽ tất nhiên từng món đồ dùng của vua, của hoàng gia, cái nào, vật nào cũng là những đồ tinh xảo, đắt giá và sang trọng… Bao bọc chung quanh là công viên với nhiều loại cây cối có niên đại thật lâu cùng những loài hoa quý hiếm… Đầu thế kỷ 20 vào năm 1910-1912, Bồ Đào Nha thay đổi thể chế và nhà vua bị truất phế để chuyển sang chế độ Cộng Hòa và nơi đây đã trở thành Viện Bảo Tàng Quốc Gia. Năm 1995 Unesco đã công nhận nơi đây là Di Sản thế giới (Cultutural Landscape, World Heritage), và là một trong bảy kỳ quan của BĐN, được mở cửa cho công chúng tham quan.

Thế là những ngày hành hương của chúng tôi được kết thúc. Những ngày qua là những chuỗi ngày hạnh phúc của bản thân tôi, được ngắm nhìn vẻ đẹp huy hoàng của đất trời, những thánh đường, những tu viện cổ xưa mà các tu sĩ, các nghệ nhân đã bỏ bao nhiêu sức lực để hoàn thành và đã lưu lại cho hậu thế để còn có thể ngắm nhìn những kiến trúc như những kỳ quan trên thế giới!

Trong chuyến đi, hai chúng tôi đã có ý nguyện đây là một chuyến hành hương về bên Mẹ Fatima để cầu nguyện theo ý riêng của mỗi người và để nghe tiếng Mẹ nhắn nhủ gì cho những ngày sắp tới của mình. Thỉnh thoảng chúng tôi hay hỏi nhau đã nghe được gì chưa? Tôi trả lời Kim, mình chỉ nghe Mẹ bảo: “Hãy vui chơi…!” Nghiệm lại tôi thấy đúng, vì khi tôi đi thăm đây đó, chiêm ngắm bao là kỳ công mà Chúa tạo dựng và bao là bàn tay, trí óc đóng góp công sức của con người để có những kiến trúc hoàn mỹ, để mỗi lần mỗi nơi tôi đều ngước nhìn lên Cha Trên Trời dâng lời Tạ Ơn và niềm vui chan chứa trong lòng vì mình đã được diễm phúc chiêm ngắm…

Ngoài ra, bài học mà tôi đã học được từ Kim là tinh thần trách nhiệm, bác ái, đơn sơ. Kim thì lúc nào cũng xông xáo, tin tưởng và tiến bước không một chút sợ sệt. Điều đó cũng không lấy gì làm lạ vì Kim rất giỏi trong nhiều lãnh vực thêm kiến thức sâu rộng về nhiều vấn đề, nên đối với Kim tất cả đều là chuyện nhỏ. Thế nhưng Kim rất đỗikhiêm nhường. Vì thế, được đi chơi với Kim là một niềm vui, là sự bình an cả tinh thần lẫn thể xác!!! Cám ơn những ngày được đồng hành với Kim.

Cuối tháng Năm, tháng Kính Đức Mẹ năm 2014

Viphương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét